Mất ngủ

Nhận biết các dạng bệnh ưa chảy máu a, b và c

Mục lục:

Anonim

Bệnh máu khó đông là một tình trạng di truyền (di truyền) dẫn đến cơ thể không thể đông máu. Kết quả là, những người bị nó sẽ chảy máu lâu hơn khi bị thương. Có ba loại bệnh ưa chảy máu phổ biến nhất, đó là bệnh ưa chảy máu A, bệnh máu khó đông B và bệnh máu khó đông C. Hãy xem xét sự khác biệt trong ba loại bệnh dưới đây.

Các loại bệnh ưa chảy máu

Bệnh máu khó đông là một chứng rối loạn chảy máu do cơ thể thiếu các protein yếu tố đông máu. Các yếu tố đông máu là các protein giúp quá trình đông máu.

Trong cơ thể con người, có khoảng 13 yếu tố đông máu khác nhau hoạt động cùng với tiểu cầu để làm đông máu. Nếu một trong các yếu tố bị giảm, quá trình đông máu có thể bị gián đoạn.

Kết quả là, máu không thể đông lại bình thường. Khi những người sống chung với bệnh máu khó đông có vết loét, họ có thể mất nhiều thời gian để chữa lành.

Có ba loại bệnh ưa chảy máu mà bạn cần biết, đó là:

1. Bệnh máu khó đông A

Bệnh máu khó đông A thường được gọi là bệnh máu khó đông cổ điển hoặc bệnh máu khó đông "mắc phải" (mua) vì một số trường hợp không phải do yếu tố di truyền. Theo National Hemophilia Foundation, khoảng 1/3 các trường hợp bệnh ưa chảy máu loại A xảy ra một cách tự phát mà không có tính di truyền.

Loại bệnh ưa chảy máu đầu tiên này xảy ra khi cơ thể thiếu yếu tố đông máu VIII (tám) thường liên quan đến mang thai, ung thư và sử dụng một số loại thuốc, và có liên quan đến các bệnh như lupus và viêm khớp dạng thấp.

Hemophilia loại A được xếp vào nhóm rối loạn máu phổ biến hơn các loại khác. Tình trạng này được tìm thấy ở 1 trong 5.000 trẻ em trai.

2. Bệnh máu khó đông B

Ngược lại với loại A, bệnh máu khó đông B xảy ra do cơ thể bị thiếu yếu tố đông máu IX (chín). Tình trạng này thường được di truyền từ mẹ, nhưng cũng có thể xảy ra khi các gen thay đổi hoặc đột biến trước khi trẻ được sinh ra.

Hemophilia B là một loại bệnh máu khó đông cũng được tìm thấy trong nhiều trường hợp, mặc dù không nhiều như bệnh máu khó đông A. Theo trang web của Trung tâm Hemophilia và Huyết khối Indiana, bệnh này được tìm thấy ở 1 trong 25.000 trẻ em trai.

3. Bệnh máu khó đông C

So với hai loại bệnh ưa chảy máu trên, các trường hợp mắc bệnh máu khó đông C được xếp vào loại rất hiếm. Bệnh máu khó đông loại C là do thiếu hụt yếu tố đông máu XI (11).

Bệnh máu khó đông loại C còn được gọi là huyết tương thromboplastin antecedent (PTA) sự thiếu hụt , hoặc hội chứng Rosenthal.

Bệnh máu khó đông C khá khó chẩn đoán vì dù máu chảy lâu nhưng lượng máu chảy ra rất nhẹ nên càng khó phát hiện và xử trí. Loại C đôi khi cũng liên quan đến bệnh lupus.

Theo Liên đoàn Hemophilia Hoa Kỳ, tình trạng này chỉ xảy ra ở 1 trong 100.000 người. Đây là điều làm cho bệnh ưa chảy máu C tương đối hiếm so với loại A và B.

Mỗi loại bệnh ưa chảy máu có các triệu chứng khác nhau?

Mặc dù khác nhau nhưng các triệu chứng do ba loại bệnh ưa chảy máu này gây ra gần như giống nhau.

Các triệu chứng phổ biến của bệnh máu khó đông bao gồm:

  • Dễ bị bầm tím
  • Dễ chảy máu, chẳng hạn như:
    • Chảy máu cam thường xuyên
    • Đi tiêu ra máu
    • Nôn ra máu
    • Nước tiểu có máu
  • Đau khớp
  • Tổn thương khớp

Tham khảo ý kiến ​​bác sĩ ngay lập tức, đặc biệt nếu bạn phát hiện ra các triệu chứng điển hình, cụ thể là dễ bị bầm tím và chảy máu khó cầm. Điều này rất quan trọng để ngăn ngừa nguy cơ biến chứng do bệnh máu khó đông.

Làm thế nào để bạn biết loại bệnh máu khó đông?

Hầu hết các trường hợp bệnh ưa chảy máu A, B và C là tình trạng di truyền. Vì vậy, cần phải làm thêm các xét nghiệm khác để chẩn đoán.

Sau khi khám sức khỏe cơ bản, bệnh máu khó đông có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu để xác định thiếu các yếu tố đông máu nào. Phương pháp này cũng có thể cho bác sĩ bệnh ưa chảy máu biết bệnh nhân mắc loại bệnh ưa chảy máu nào.

Mẫu máu cũng sẽ xác định mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, chẳng hạn như:

  • Bệnh máu khó đông nhẹ được biểu thị bằng yếu tố đông máu trong huyết tương từ 5-40%.
  • Bệnh ưa chảy máu trung bình được đặc trưng bởi yếu tố đông máu trong huyết tương khoảng 1-5 phần trăm
  • Bệnh ưa chảy máu nặng được chỉ định với yếu tố đông máu trong huyết tương dưới 1%.

Bác sĩ sẽ xem xét phương pháp điều trị tùy theo mức độ nghiêm trọng của bệnh máu khó đông mà bạn mắc phải. Cho đến nay, không có cách chữa trị bệnh ưa chảy máu dưới bất kỳ hình thức nào. Việc sử dụng thuốc chỉ có thể làm giảm các triệu chứng và ngăn tình trạng bệnh trở nên tồi tệ hơn.

Nhận biết các dạng bệnh ưa chảy máu a, b và c
Mất ngủ

Lựa chọn của người biên tập

Back to top button