Blog

Thuốc Dmard: cách sử dụng, dạng và tác dụng phụ

Mục lục:

Anonim

Bệnh tự miễn dịch là một căn bệnh mà hệ thống miễn dịch của một người tấn công cơ thể của chính mình. Trong tình trạng này, hệ thống miễn dịch nhầm lẫn coi các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể là chất lạ, vì vậy cơ thể bắt đầu tạo ra các kháng thể sẽ tấn công các tế bào này.

Để không gây ra ảnh hưởng nặng nề của các bệnh tự miễn, bệnh nhân gặp phải nó phải dùng thuốc. Một loại thuốc thường được sử dụng là thuốc DMARD.

Thuốc DMARD là gì?

DMARD (điều chỉnh bệnh thuốc chống thấp khớp) là một nhóm thuốc được thiết kế để điều trị các tình trạng tự miễn dịch như bệnh thấp khớp (RA), viêm khớp vẩy nến (PsA), viêm cột sống dính khớp (AS) và bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE).

Thuốc DMARD cũng được sử dụng cho nhiều bệnh khác như viêm cơ, viêm mạch, bệnh viêm ruột (IBD) và một số loại ung thư.

Mặc dù có thể giảm đau, nhưng DMARD không phải là thuốc giảm đau. Các loại thuốc này có tác dụng giảm viêm bằng cách tập trung vào nguyên nhân cơ bản của bệnh chứ không phải điều trị trực tiếp các triệu chứng.

DMARD sẽ làm chậm sự tiến triển của bệnh, do đó sẽ làm giảm các triệu chứng của bạn theo thời gian trong khi bạn đang điều trị.

Việc sử dụng thuốc này không thể được thực hiện một cách tự do. Bạn cần có sự giám sát chặt chẽ và tất nhiên là có sự chỉ định của bác sĩ để thuốc không có tác dụng nguy hiểm. Thông thường, bác sĩ cũng sẽ kê đơn các loại thuốc khác sẽ được sử dụng cùng với DMARD như một phần của điều trị.

Các loại DMARD và cách chúng hoạt động

Nguồn: Gazeta Metro

Các loại thuốc này được chia thành hai loại, đó là thuốc DMARD thông thường và liệu pháp sinh học. Mỗi loại thuốc có một cách hoạt động riêng. Đây là lời giải thích.

Thuốc DMARD thông thường

Các loại thuốc thông thường là thuốc DMARD có tác dụng chậm và việc điều trị có thể mất đến vài tuần để bạn có tác dụng. Một số loại thuốc thường được sử dụng bao gồm:

  • Methorexate (MTX). Thuốc MTX hoạt động bằng cách thay đổi cách các tế bào miễn dịch xử lý một loại protein chịu trách nhiệm giảm viêm. Thuốc này cũng có thể ức chế sự phát triển của một số tế bào như tế bào ung thư, tế bào tủy xương và tế bào da. Vì tính hữu ích của nó, loại thuốc này cũng được sử dụng cho liệu pháp điều trị ung thư.
  • Chloroquine. Thường được sử dụng để điều trị bệnh sốt rét, chloroquine cũng có thể được sử dụng để điều trị chứng viêm như bệnh thấp khớp. Chloroquine hoạt động bằng cách ngăn chặn sự phát triển của ký sinh trùng sống trong tế bào hồng cầu. Loại thuốc này cũng có chức năng tiết ra các cytokine có thể làm giảm tình trạng viêm nhiễm.
  • Azathioprine. Azathioprine điều trị sưng khớp ở những bệnh nhân bị bệnh thấp khớp hoặc các biến chứng khác như lupus hoặc viêm cơ. Thuốc này hoạt động bằng cách ức chế hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể.
  • Leflunomide. Thuốc Leflunomide ức chế sự hình thành của DNA, đóng vai trò quan trọng trong quá trình sao chép tế bào, bao gồm cả những tế bào của hệ thống miễn dịch. Sau đó, sự hình thành tế bào bị ức chế sẽ làm giảm sức mạnh của hệ thống miễn dịch có thể gây đau cho những người bị bệnh thấp khớp.
  • Sulfasalazine (SSZ). Sulfasalazine là một loại thuốc kết hợp giữa salicilate và thuốc kháng sinh. Thuốc này có tác dụng làm giảm sưng tấy và kích ứng do viêm. Thuốc này cũng có thể ngăn ngừa tổn thương khớp.

Thuốc DMARD sinh học

DMARD sinh học sẽ được tiêm khi bệnh nhân không đáp ứng với điều trị bằng DMARD thông thường. Còn được gọi là liệu pháp sinh học, thuốc này có thể hoạt động nhanh hơn DMARD thông thường. Đôi khi liệu pháp sinh học này được dùng cùng với các loại thuốc DMARD thông thường như methotrexate.

Nhóm thuốc này hoạt động đặc biệt để ức chế một số cytokine gây viêm. Một loại bao gồm thuốc này là thuốc chống TNF.

Anti-TNF ngăn chặn sự xuất hiện của một loại protein được đặt tên yếu tố hoại tử khối u dư thừa trong máu hoặc khớp để không gây viêm hoặc tổn thương thêm các tế bào cơ thể.

Các tác dụng phụ có thể phát sinh từ thuốc DMRAD

Giống như các loại thuốc khác, DMARD cũng có một số tác dụng phụ. Vì thuốc DMARD hoạt động bằng cách ức chế hệ thống miễn dịch để kiểm soát tình trạng viêm, tác động đến nguy cơ nhiễm trùng của bệnh nhân sẽ tăng lên.

Một số dấu hiệu nhiễm trùng phổ biến là sốt, đau họng hoặc tiểu buốt. Tuy nhiên, các loại thuốc DMARD khác nhau cũng có thể có các tác dụng phụ khác nhau.

Thuốc methotrexate có thể gây buồn nôn, sưng lợi và cực kỳ mệt mỏi. Chloroquine có thể tạo ra các phản ứng phụ dưới dạng buồn nôn và tiêu chảy khi bắt đầu điều trị.

Ngay cả trong một số trường hợp hiếm hoi, thuốc chloroquine có thể gây mất thị lực. Trong khi đó, tác dụng phụ của thuốc leflunomide có thể bao gồm ngứa hoặc bong tróc da.

Nó khác với thuốc DMARD sinh học, các tác dụng phụ sinh ra thậm chí còn nguy hiểm hơn. Việc sử dụng một số loại thuốc có thể làm tăng nguy cơ nhiễm vi khuẩn lao tiềm ẩn, trong đó nhiễm vi khuẩn lao không gây ra triệu chứng nhưng về sau có thể phát triển thành bệnh lao.

Một số bệnh nhiễm trùng khác cũng có thể là tác dụng phụ của liệu pháp sinh học bao gồm viêm gan và CMV.

Vì vậy, nếu bạn mắc một bệnh tự miễn và muốn lựa chọn DMARD để điều trị thì cần phải tham khảo ý kiến ​​của bác sĩ, đặc biệt nếu bạn cũng đang gặp phải các bệnh lý khác như đang mang thai.

Để không gây biến chứng, bạn cũng nên hỏi ý kiến ​​bác sĩ về công dụng cũng như tác dụng phụ của thuốc và đừng quên trao đổi với gia đình.

Thuốc Dmard: cách sử dụng, dạng và tác dụng phụ
Blog

Lựa chọn của người biên tập

Back to top button