Thời kỳ mãn kinh

Danh sách các xét nghiệm sàng lọc trong thai kỳ, từ 3 tháng 1 đến 3

Mục lục:

Anonim

Xét nghiệm sàng lọc trước sinh hay xét nghiệm sàng lọc khi mang thai là một tập hợp các thủ tục được thực hiện trong quá trình mang thai để xác định xem em bé có khả năng bị dị tật bẩm sinh hoặc bất thường nào đó hay không. Hầu hết các xét nghiệm này đều không xâm lấn. Những xét nghiệm này thường được thực hiện trong tam cá nguyệt thứ nhất và thứ hai, nhưng một số cũng được thực hiện trong tam cá nguyệt thứ ba.

Các xét nghiệm sàng lọc khi mang thai chỉ có thể cho bạn biết nguy cơ hoặc khả năng mắc một số bệnh lý ở thai nhi. Nếu kết quả xét nghiệm sàng lọc là dương tính, sẽ cần thực hiện thêm các xét nghiệm chẩn đoán để có kết quả chính xác hơn. Dưới đây là một số xét nghiệm sàng lọc là quy trình thường quy cho phụ nữ mang thai.

Xét nghiệm sàng lọc trong ba tháng đầu của thai kỳ

Xét nghiệm sàng lọc trong tam cá nguyệt đầu tiên, có thể được bắt đầu ngay khi thai được 10 tuần, là sự kết hợp giữa siêu âm thai (siêu âm) và xét nghiệm máu mẹ.

1. Siêu âm

Thử nghiệm này được thực hiện để xác định kích thước và vị trí của em bé. Ngoài ra, nó còn giúp xác định nguy cơ thai nhi bị dị tật bẩm sinh bằng cách quan sát cấu trúc xương và các cơ quan của bé.

Siêu âm độ mờ da gáy (NT) là phép đo sự gia tăng hoặc độ dày của chất lỏng ở phía sau cổ của thai nhi khi thai được 11-14 tuần tuổi bằng siêu âm. Nếu có nhiều chất lỏng hơn bình thường, điều đó có nghĩa là có nhiều nguy cơ mắc hội chứng Down ở trẻ.

2. Xét nghiệm máu

Trong tam cá nguyệt đầu tiên, hai loại xét nghiệm huyết thanh mẹ được thực hiện, viz Protein huyết tương liên quan đến thai kỳ (PAPP-A) và hormone hCG (Gonadotropin màng đệm ở người). Đây là những protein và hormone được sản xuất bởi nhau thai trong giai đoạn đầu của thai kỳ. Nếu kết quả không bình thường, sẽ làm tăng nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể.

Xét nghiệm máu cũng được thực hiện để kiểm tra các bệnh truyền nhiễm ở trẻ sơ sinh, hay còn gọi là xét nghiệm TORCH. Xét nghiệm này là từ viết tắt của năm loại bệnh truyền nhiễm, cụ thể là bệnh toxoplasma, các bệnh khác (bao gồm HIV, giang mai và sởi), rubella (bệnh sởi Đức), cytomegalovirus và herpes simplex.

Ngoài ra, xét nghiệm máu cũng sẽ được sử dụng để xác định nhóm máu của bạn và Rh (rhesus), xác định mối quan hệ giữa Rh của bạn với thai nhi đang phát triển.

3. Lấy mẫu nhung mao màng đệm

Lấy mẫu nhung mao màng đệm là một xét nghiệm sàng lọc xâm lấn được thực hiện bằng cách lấy một mẩu nhỏ của nhau thai. Xét nghiệm này thường được thực hiện từ tuần thứ 10 đến tuần thứ 12 của thai kỳ.

Xét nghiệm này thường là xét nghiệm theo dõi siêu âm NT và xét nghiệm máu bất thường. Xét nghiệm này được thực hiện để xác nhận thêm sự hiện diện của các rối loạn di truyền ở thai nhi như hội chứng Down.

Kiểm tra sàng lọc trong ba tháng cuối của thai kỳ

1. Xét nghiệm máu

Xét nghiệm máu trong ba tháng cuối của thai kỳ bao gồm một số xét nghiệm máu nhiều điểm đánh dấu . Xét nghiệm này được thực hiện để xác định nguy cơ dị tật bẩm sinh hoặc bất thường di truyền ở em bé. Xét nghiệm này được thực hiện tốt nhất vào tuần 16 đến 18 của thai kỳ.

Các xét nghiệm máu này bao gồm:

  • Mức độ alpha-fetoprotein (AFP). Đây là một loại protein thường được sản xuất bởi gan của thai nhi và có trong chất lỏng bao quanh thai nhi (nước ối), và đi qua nhau thai vào máu của mẹ. Mức AFP bất thường có thể làm tăng các nguy cơ như nứt đốt sống, hội chứng Down hoặc các bất thường nhiễm sắc thể khác, dị tật trong bụng của thai nhi và song thai.
  • Mức độ hormone được sản xuất bởi nhau thai bao gồm hCG, estriol và các chất ức chế.

2. Kiểm tra lượng đường trong máu

Xét nghiệm lượng đường trong máu được sử dụng để chẩn đoán bệnh tiểu đường thai kỳ. Đây là một tình trạng có thể phát triển trong thai kỳ. Tình trạng này có thể làm tăng ca sinh mổ vì trẻ sơ sinh của những bà mẹ bị tiểu đường thai kỳ thường có kích thước lớn hơn.

Xét nghiệm này cũng có thể được thực hiện sau khi mang thai nếu người phụ nữ có lượng đường trong máu cao trong thai kỳ. Hoặc nếu bạn có lượng đường trong máu thấp sau khi sinh.

Đây là một loạt các thử nghiệm được thực hiện sau khi bạn uống một chất lỏng ngọt có chứa đường. Nếu bạn dương tính với bệnh tiểu đường thai kỳ, bạn có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao hơn trong 10 năm tới, và bạn nên đi xét nghiệm lại sau khi mang thai.

3. Chọc ối

Trong quá trình chọc dò ối, nước ối được lấy ra khỏi tử cung để làm xét nghiệm. Nó chứa các tế bào thai nhi có cấu tạo di truyền giống như trẻ sơ sinh, cũng như các chất hóa học khác nhau được cơ thể em bé tạo ra. Có một số loại chọc dò ối.

Xét nghiệm chọc ối di truyền để tìm các rối loạn di truyền, ví dụ như tật nứt đốt sống. Xét nghiệm này thường được thực hiện sau tuần thứ 15 của thai kỳ. Thử nghiệm này được khuyến nghị nếu:

  • Các xét nghiệm sàng lọc khi đang mang thai cho kết quả bất thường.
  • Có bất thường về nhiễm sắc thể trong lần mang thai trước.
  • Phụ nữ có thai từ 35 tuổi trở lên.
  • Có tiền sử gia đình về các rối loạn di truyền nhất định.

Xét nghiệm sàng lọc thai kỳ 3 tháng giữa

Sàng lọc Liên cầu Nhóm B

Liên cầu Nhóm B (GBS) là một nhóm vi khuẩn có thể gây nhiễm trùng nghiêm trọng ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh. GBS ở phụ nữ khỏe mạnh thường được tìm thấy trong miệng, cổ họng, đường tiêu hóa và âm đạo.

GBS trong âm đạo nói chung là vô hại đối với phụ nữ bất kể họ có mang thai hay không. Tuy nhiên, nó có thể rất nguy hiểm đối với trẻ sơ sinh chưa có hệ miễn dịch mạnh. GBS có thể gây nhiễm trùng nghiêm trọng cho trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh khi mới sinh. Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách cọ xát âm đạo và trực tràng của thai phụ khi tuổi thai được 35 đến 37 tuần.

Nếu kết quả sàng lọc GBS là dương tính, bạn sẽ được dùng thuốc kháng sinh khi chuyển dạ để giảm nguy cơ em bé bị nhiễm GBS.


x

Danh sách các xét nghiệm sàng lọc trong thai kỳ, từ 3 tháng 1 đến 3
Thời kỳ mãn kinh

Lựa chọn của người biên tập

Back to top button